Xẹp đốt sống là gì? Các công bố khoa học về Xẹp đốt sống

Xẹp đốt sống là một kỹ thuật y học được sử dụng để điều trị một số vấn đề về đốt sống, như thoát vị đĩa đệm hoặc đau lưng. Quá trình này bao gồm sử dụng một dụn...

Xẹp đốt sống là một kỹ thuật y học được sử dụng để điều trị một số vấn đề về đốt sống, như thoát vị đĩa đệm hoặc đau lưng. Quá trình này bao gồm sử dụng một dụng cụ đặc biệt để áp lực lên các đốt sống trong mục đích giảm đau và cải thiện chức năng cột sống.
Xẹp đốt sống, hay còn được gọi là trị liệu nặn đốt sống, là một kỹ thuật quan trọng trong y học cột sống. Quá trình xẹp đốt sống thường được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa cột sống hoặc các bác sĩ có chuyên môn về vật lý trị liệu.

Quá trình này bắt đầu bằng việc đặt bệnh nhân vào vị trí thích hợp, thường là nằm trên một cái bàn. Bác sĩ sau đó sẽ áp dụng một áp lực nhẹ và theo ý muốn lên các đốt sống cụ thể. Áp lực này có thể được áp dụng dọc theo trục chiều dọc của cột sống hoặc trục ngang, tùy thuộc vào tình trạng và vị trí rối loạn đốt sống.

Mục tiêu chính của xẹp đốt sống là giảm đau và cải thiện chức năng cột sống. Quá trình áp dụng áp lực nhẹ lên các đốt sống có thể giúp làm giãn các đĩa đệm giữa các đốt sống, làm giảm áp lực lên dây thần kinh và mô mỡ xung quanh. Điều này có thể giảm việc gây ra đau lưng và các triệu chứng liên quan.

Xẹp đốt sống có thể được thực hiện bằng tay, tức là bác sĩ sẽ áp dụng áp lực bằng cách sử dụng tay hoặc cánh tay, hoặc có thể sử dụng các máy móc, dụng cụ thiết bị đặc biệt để áp dụng áp lực. Phương pháp sử dụng tùy thuộc vào mục đích của quá trình và sự ưu tiên của bác sĩ.

Ngoài việc giảm đau và cải thiện chức năng, xẹp đốt sống cũng có thể giúp tăng cường lưu thông máu, giảm việc sưng tấy và tăng độ linh hoạt của cột sống. Quá trình này thường được kết hợp với các biện pháp điều trị khác, như tập thể dục chuyên biệt và vật lý trị liệu, để đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc điều trị đau lưng và các vấn đề liên quan đến đốt sống.
Xẹp đốt sống có hai phương pháp chính là xẹp theo hướng dọc và xẹp theo hướng ngang.

1. Xẹp theo hướng dọc: Quá trình này bắt đầu bằng việc đặt bệnh nhân lên một bàn xẹp đặc biệt, trong đó đầu và chân của bệnh nhân được cố định bằng các dây đai. Bác sĩ sử dụng các tay vịn để tạo ra áp lực ngược và kéo các đốt sống ra xa nhau. Áp lực được áp dụng dọc theo trục chiều dọc của cột sống.

2. Xẹp theo hướng ngang: Quá trình này được thực hiện bằng việc đặt bệnh nhân nằm trên một bàn xoay. Bác sĩ sử dụng các tay vịn để tạo ra áp lực ngang và kéo các đốt sống ra xa nhau. Áp lực này được áp dụng ngang theo trục của cột sống.

Cả hai phương pháp xẹp theo hướng dọc và xẹp theo hướng ngang đều nhằm giãn các đĩa đệm và giảm áp lực lên dây thần kinh và các mô mỡ xung quanh. Điều này có thể giảm việc gây đau và giúp khôi phục chức năng của cột sống.

Quá trình xẹp đốt sống thường kéo dài trong khoảng 20 đến 45 phút tùy thuộc vào tình trạng và mục đích điều trị. Bệnh nhân có thể cảm thấy một số khó chịu hoặc căng cứng trong quá trình xẹp, nhưng nó không nên gây ra đau mạnh hay đau lưng lần đầu tiên.

Trước khi quyết định thực hiện xẹp đốt sống, bác sĩ sẽ tiến hành một cuộc khám lâm sàng kỹ lưỡng và đánh giá tình trạng cụ thể của bệnh nhân. Xẹp đốt sống không phải là phương pháp điều trị phù hợp cho tất cả mọi người và có thể có những hạn chế và tác dụng phụ nhất định. Do đó, tư vấn và hướng dẫn của bác sĩ là cần thiết trước khi quyết định xẹp đốt sống.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xẹp đốt sống":

NHẬN XÉT KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH THÂN ĐỐT SỐNG BẰNG BƠM CEMENT SINH HỌC Ở BỆNH NHÂN XẸP ĐỐT SỐNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BẮC GIANG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Nhận xét kết quả phẫu thuật tạo hình thân đốt sống bằng phương pháp bơm Cement sinh học điều trị xẹp đốt sống dựa trên mức độ cải thiện triệu chứng đau cột sống theo thang điểm VAS. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả với 45 bệnh nhân xẹp đốt sống do loãng xương đã được điều trị bơm Cement sinh học tạo hình đốt sống tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang từ tháng 8/2019 đến tháng 12/2020. Kết quả: Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh nhân nữ chiếm 75,6%, nhóm tuổi gặp nhiều nhất là > 70 tuổi chiếm 68,9%. Triệu chứng đau tại vùng cột sống gặp ở 100% các bệnh nhân và đây cũng là nguyên nhân chính bệnh nhân nhập viện điều trị. Điểm VAS đau lưng trước phẫu thuật trung bình là 8,31 điểm, VAS trung bình sau mổ 1,91 ± 1,22. Vị trí đốt sống cao nhất được phẫu thuật là D12, thấp nhất là L3, có 24,5% bệnh nhân tổn thương 2 vị trí và được can thiệp trong cùng thời điểm. Tạo hình đốt sống bằng bơm Cement là phương pháp điều trị an toàn với tỷ lệ biến chứng thấp: 4,4% tràn qua bờ trước thân đốt sống, 8,9% tràn vào đĩa đệm, tràn vào ống sống 2,2% và không để lại di chứng. Lượng Cement bơm vào mỗi đốt sống trung bình 5,5 ± 1,6 ml phụ thuộc vào mức độ xẹp đốt sống, kích thước đốt sống và tình trạng loãng xương. Ngay sau bơm Cement kết quả rất tốt chiếm 57,8%, tốt chiếm 33,3%, trung bình chiếm 8,9%. Kết luận: Tạo hình thân đốt sống bằng bơm Cement sinh học trong điều trị xẹp đốt sống do loãng xương là phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn, hiệu quả giảm đau tốt, ít biến chứng.
#Xẹp đốt sống #do loãng xương #bơm Cement.
KẾT QUẢ BƠM XI MĂNG CÓ BÓNG QUA DA ĐIỀU TRỊ XẸP THÂN ĐỐT SỐNG NGỰC, THẮT LƯNG DO LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐÔNG ANH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tạo hình thân đốt sống bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng cho các bệnh nhân xẹp đốt sống ngưc, thắt lưng do loãng xương tại bệnh viện đa khoa Đông Anh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả trên 72 bệnh nhân (97 thân đốt sống) bị lún xẹp do loãng xương được tiến hành bơm xi măng có bóng tại khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Đông Anh từ tháng 11/2020-11/2021. Kết quả: Tuổi trung bình: 72,86±8,20 (60-93), chủ yếu 70‐79 tuổi (59,72%).  Tỷ lệ nữ/ nam: 3,2/1, 100% loãng xương với T score ≤‐2,5. Đau do loãng xương đơn thuần 13,89%, có yếu tố chấn thương chiếm 86,11%. 100% bệnh nhân giảm đau ở ngày đầu tiên sau bơm. Điểm VAS trước mổ là 7,72±1,17, sau mổ 1 ngày là 2,67±0,67 và sau 3 tháng là 1,36 ± 0,71. Sau 3 tháng, phân loại  kết quả điều trị theo tiêu chuẩn MacNab: 64/72BN (88,89%) đạt kết quả tốt và khá, 8/72BN (11,11%) đạt trung bình, không có BN đạt kết quả kém. Góc Cobb trước khi tiến hành bơm xi măng là 17,36± 8,450 và sau khi tiến hành bơm xi măng có bóng là 11,23±6,620. Biến chứng tràn xi măng trong mổ gồm có tỷ lệ bệnh nhân tràn xi măng qua bờ trước thân đốt sống là 9/97 (9,27%) và tràn vào đĩa đệm là 5/97 (5,15%). Kết luận: Phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng tạo hình thân đốt sống là một phương pháp can thiệp tối thiểu, an toàn có hiệu quả cao trong việc giảm đau ở bệnh nhân bị xẹp đốt sống do loãng xương
#Bơm xi măng #xẹp đốt sống #loãng xương
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH THÂN ĐỐT SỐNG BẰNG BƠM CEMENT CÓ BÓNG ĐIỀU TRỊ XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Bơm cement có bóng điều trị xẹp đốt sống (XĐS) do loãng xương giúp giảm đau sớm, khôi phục chiều cao đốt sống xẹp, giảm biến chứng rò cement. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kết quả bơm cement có bóng tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, can thiệp không đối chứng 60 bệnh nhân (BN), được chẩn đoán XĐS do LX điều trị bằng bơm cement có bóng tại Khoa Chấn thương chỉnh hình và Cột sống - Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2019 đến tháng 02/2020. Kết quả: BN nữ 76,7%, BN nam 23,3%; VAS trung bình trước mổ 6,6 ± 0,8 điểm; T-score trung bình đo ở cột sống -3,5 ± 0,7. Mức độ đau theo thang điểm VAS, góc gù thân đốt, góc gù vùng trên Xquang sau bơm cement cải thiện rõ rệ so với trước bơm (p < 0,001). Tai biến tràn cement qua bờ trước thân đốt sống 8,3%; 2,7% tràn cement qua đĩa đệm; 2,7%  vỡ bóng. Đánh giá điểm MacNab sau 6 tháng 88,5 % BN có chất lượng cuộc sống tốt và rất tốt; 11,5% chất lượng cuộc sống trung bình. Kết luận: Tạo hình thân đốt sống bằng bơm cement sinh học có bóng điều trị xẹp đốt sống do loãng xương cho kết quả cải thiện lâm sàng tốt, hiệu quả chỉnh gù cao, ít biến chứng.
#xẹp đốt sống loãng xương #bơm cement có bóng
ĐẶC ĐIỂM VỀ MẬT ĐỘ XƯƠNG, HÌNH ẢNH X-QUANG, MRI CỦA NGƯỜI BỆNH ĐƯỢC CHẨN ĐOÁN XẸP THÂN ĐỐT SỐNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG TỪ NĂM 2015 ĐẾN NĂM 2018
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Phân tích các đặc điểm về mật độ xương, hình ảnh X-Quang, MRI của người bệnh được chẩn đoán xẹp thân đốt sống tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang từ năm 2015 đến 2018. Phương pháp: Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Chọn mẫu toàn bộ người bệnh được chẩn đoán xẹp thân đốt sống tại Bệnh viện Đức Giang trong thời gian thu thập số liệu từ năm 2015 đến 2018. Tiến hành thu thập số liệu sử dụng bảng kiểm thu thập số liệu dựa trên hồ sơ bệnh án của người bệnh. Các nhóm biến số chính được thu thập bao gồm các thông tin về đặc điểm nhân khẩu – xã hội học của người bệnh, đặc điểm về mật độ xương (đo lường sử dụng T-Score), vị trí, phân loại, chiều cao đốt sống bị xẹp, góc xẹp thân đốt sống. Kết quả và kết luận: Có 173 đối tượng (tuổi trung bình là 70,2 với 77,8% là nữ giới) được đưa vào trong nghiên cứu, với 195 đốt sống bị xẹp được phát hiện. Trung bình T-Score của nhóm đối tượng nghiên cứu là -3,36 ± 1,21. Vị trí đốt sống bị xẹp phổ biến nhất là L1 và D12. Phần lớn đốt sống bị xẹp hình chêm. Chiều cao trung bình tường trước, tường giữa và tường sau đốt sống bị xẹp lần lượt là 19,41mm, 22,89mm và 27,48mm. Tỷ lệ giảm chiều cao đốt sống bị xẹp so với đốt lành liền kề trung bình là 30,1%. Phần lớn các đốt sống xẹp nhẹ và trung bình (theo phân loại Genant), chiếm lần lượt 42% và 41% số đốt sống bị xẹp. Nghiên cứu cung cấp các thông tin hữu ích hỗ trợ cho các bác sĩ trong quá trình chẩn đoán và điều trị xẹp thân đốt sống.
#Xẹp thân đốt sống #mật độ xương #chiều cao đốt sống #góc xẹp thân đốt sống
KẾT QUẢ CẢI THIỆN GÓC GÙ CỘT SỐNG VÙNG BẢN LỀ NGỰC THẮT LƯNG BẰNG KĨ THUẬT BƠM XI MĂNG SINH HỌC CÓ BÓNG TRÊN BỆNH NHÂN XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá sự cải thiện về lâm sàng và các chỉ số góc gù vùng bản lề ngực thắt lưng bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng trên những bệnh nhân có xẹp đốt sống do loãng xương. Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán xẹp đốt sống vùng T12-L1 do loãng xương được điều trị bằng phương pháp tạo hình thân đốt sống bằng bơm xi măng sinh học có bóng tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức. Mật độ xương của bệnh nhân, thang điểm đau VAS, thang điểm ODI, góc gù thân đốt, tỷ lệ giảm chiều cao tường trước được đánh giá trước và sau phẫu thuật. Các bệnh nhân được khám lại sau 6 tháng. Kết quả: Hiệu quả phục hồi chiều cao thân đốt sống từ 59,3 ± 11,4 (%) lên 73,3 ± 7,9 (%). Các góc gù thân đốt sống, góc Cobb cải thiện sau bơm có ý nghĩa thống kê và được duy trì sau 6 tháng theo dõi. Trung bình điểm VAS trước bơm, sau bơm 24h và 6 tháng lần lượt là 6,5; 2,5; 2,8. ODI trước mổ và sau mổ 6 tháng lần lượt là 54,3% và 27,6%. Kết luận: Tạo hình thân đốt sống bằng phương pháp bơm xi măng sinh học có bóng trên những bệnh nhân xẹp đốt sống T12-L1 do loãng xương có hiệu quả tốt.
#Xẹp đốt sống #bơm xi măng sinh học có bóng #loãng xương #góc gù thân đốt sống
KẾT QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP TẠO HÌNH ĐỐT SỐNG NGỰC QUA DA Ở NHỮNG BỆNH NHÂN XẸP CẤP THÂN ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp tạo hình đốt sống ngực qua da ở bệnh nhân xẹp cấp đốt sống ngực doloãng xương.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu kết hợp tiến cứu 40 bệnh nhân xẹp cấp đốt sống ngực do loãng xươngđược được đổ xi măng tại Trung tâm Điện Quang- Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2018 đến tháng 3/2019. Hiệu quả giảm đauđược đánh giá qua điểm VAS và Macnab, hiệu quả tạo hình đánh giá qua sự thay đổi góc Cobb, chiều cao tường trước, tườnggiữa và tường sau, đồng thời bệnh nhân được theo dõi và đánh giá tai biến trong, sau can thiệp 1 tuần, 1 tháng và 3 tháng.Kết quả: 40 BN với 56 ĐS tổn thương cho thấy không có tai biến trong quá trình chọc kim và các tai biến nặng toàn thân,12,5% xi măng tràn ra quanh đốt sống, không có trường hợp nào xi măng tràn vào gây tắc ĐM phổi, 5% đau tại chỗ sau canthiệp.Trung bình điểm VAS giảm từ 6.95 xuống 1,72 sau 3 tháng, 86,95% đáp ứng tốt và rất tốt theo Macnab,góc Cobb giảm từ14,4±9,1 xuống 13,2± 8,5, chiều cao tường trước tăng từ 18.5± 4.3mm lên 19.1± 4.1mm, chiều cao tường giữa tăng từ 16.7±4.3mm lên 17.4±4.3mm sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05, không có sự thay đổi đáng kể tường sau sau 3 tháng canthiệp với p>0,05.Kết luận: THĐS ngực qua da là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị giảm đau xẹp ĐS ngực do LX, tuy nhiênít có ý nghĩa về cải thiện góc Cobb và chiều cao thân đốt sống.
#tạo hình đốt sống ngực qua da #điều trị xẹp đốt sống ngưc #hiệu quả giảm đau #hiệu quả tạo hình.
NGHIÊN CỨU CÁC DẤU HIỆU CỘNG HƯỞNG TỪ THƯỜNG QUY TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT XẸP ĐỐT SỐNG DO LOÃNG XƯƠNG VÀ XẸP ĐỐT SỐNG DO NGUYÊN NHÂN ÁC TÍNH NGƯỜI CAO TUỔI
Mục đích nghiên cứu: Xác định các dấu hiệu cộng hưởng từ (CHT) thường quy có giá trị trong phân biệt giữa xẹp đốt sống do loãng xương và do nguyên nhân ác tính.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu được tiến hành trên hình ảnh chụp CHT thường quy có tiêm thuốc đối quang từ của 40 bệnh nhân trên 50 tuổi (20 bệnh nhân có xẹp đốt sống do loãng xương và 20 do bệnh lí ác tính) tại Khoa CĐHA Bệnh viện Đại học Ajou, Suwon, Hàn Quốc từ 01-01-2010 tới 01-01-2012. Tần suất gặp các dấu hiệu CHT trên hai nhóm bệnh được so sánh dựa trên kiểm định Chi-quare để đánh giá sự khác biệt có ý nghĩa.Kết quả: Các dấu hiệu hay gặp trong xẹp đốt sống do loãng xương bao gồm: xẹp hình chêm cân đối, tường sau không bị tổn thương hay cong lõm, không có hoặc ít tổn thương phần mềm cạnh sống, đồng tín hiệu trên T1W, đồng tính hiệu hoặc tín hiệu không đồng nhất trên T2W, không ngấm thuốc đối quang từ. Dấu hiệu của tổn thương ác tính gồm có: xẹp toàn bộ, không cân đối, khối phần mềm cạnh sống lớn, tổn thương bao gồm cả cung sau đốt sống, tường sau đốt sống cong lồi.Kết luận: CHT thường quy cho phép chẩn đoán phân biệt giữa xẹp đốt sống do loãng xương và do nguyên nhân ác tính.
#Cộng hưởng từ #xẹp đốt sống do loãng xương #xẹp đốt sống do nguyên nhân ác tính
Evaluation of the effectiveness of improving vertebral body height with percutaneous vertebroplasty in the treatment of spinal fractures due to osteoporosis
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả cải thiện chiều cao thân đốt sống của phương pháp tạo hình đốt sống qua da trong điều trị xẹp thân đốt sống do loãng xương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc trên 150 bệnh nhân (BN) có xẹp đốt sống do loãng xương được tạo hình đốt sống qua da (THĐSQD) tại Bệnh viện Hữu Nghị từ tháng 01/2017 đến tháng 01/2024. Kết quả: Trong số 150 BN, nữ giới chiếm đa số với 86 BN (57,3%). Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 78,4 ± 8,9 tuổi. Phần lớn BN  được can thiệp 1 đốt sống với 85,3%. Trong số 182 thân đốt sống được THĐSQD, hầu hết là đốt sống thắt lưng với 67%, có 160 đốt sống (87,9%) được tiếp cận qua một cuống và 69,8% đốt sống bơm >5ml cement. So sánh trước chiều cao đốt sống trước can thiệp với ngay sau can thiệp và sau can thiệp 1 năm, chiều cao thân đốt sống được cải thiện ở cả tường trước, tường giữa, tường sau (p<0,01). Sự chênh lệch chiều cao thân đốt sống ngay sau can thiệp và sau 1 năm là không có sự khác biệt (p>0,05). Kết luận: Phương pháp điều trị THĐSQD giúp cải thiện chiều cao thân đốt sống bị gãy xẹp ngay sau can thiệp và duy trì trong thời gian ít nhất là 1 năm sau can thiệp.
#DSA #xẹp đốt sống #tạo hình đốt sống qua da #loãng xương
Evaluating the result of cement augmentation in vertebral fractures with posterior wall injury
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính anh toàn của bơm xi măng sinh học tạo hình thân đốt sống ở bệnh nhân xẹp thân đốt sống ngực thắt lưng do loãng xương có vỡ thành sau. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng hồi cứu trên một nhóm bệnh nhân, so sánh trước và sau phẫu thuật. Đánh giá mức độ đau bằng thang điểm VAS, chức năng cột sống thắt lưng theo thang điểm ODI, chiều cao thân đốt sống xẹp; góc Cobb trước và sau phẫu thuật; lượng xi măng được bơm; vị trí rò xi măng. Thời gian theo dõi trung bình là 417 ngày. Kết quả: Nghiên cứu gồm 20 bệnh nhân (BN) có tuổi trung bình 71,35 (54-85); tỷ lệ nữ/nam là 5,7. Mật độ xương cột sống trung bình: -3,5. ASA từ 2 trở lên chiếm 75%. Khởi phát thường tự nhiên hoặc sau 1 chấn thương nhẹ (95%). Vị trí đốt sống xẹp hay gặp nhất là L1 với tỷ lệ 45%. Lượng xi măng trung bình được bơm vào 1 thân đốt sống là 7,55ml (4,8-10ml). Rò xi măng ra ngoài thân đốt sống gặp ở 40% trường hợp trong đó có 1 trường hợp rò xi măng vào trong ống sống không triệu chứng. Điểm VAS lưng và ODI trước bơm xi măng trung bình là 6,65 và 74,78%; tại thời điểm khám lại đã giảm đáng kể còn 0,45 điểm và 10,65% (p<0,05). Tỷ lệ chiều cao 2 vị trí trước và giữa của thân đốt xẹp trước bơm xi măng lần lượt là 57,58%, 59,04% tăng lên đáng kể sau bơm xi măng tương ứng là 82,50%, 81,88%. Góc Cobb gù vùng cũng giảm xuống có ý nghĩa từ 18,380 trước bơm xi măng xuống còn 10,960 sau bơm xi măng (p<0,05). Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi gợi ý rằng xẹp đốt sống do loãng xương có vỡ thành sau và không có chèn ép thần kinh không có chống chỉ định đối với phẫu thuật tạo hình thân đốt sống bằng bơm xi măng sinh học.
#Bơm xi măng tạo hình thân đốt sống #xẹp đốt sống có vỡ thành sau #xẹp đốt sống do loãng xương.
16. Giá trị của cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong phát hiện đánh giá phù tủy xương ở bệnh nhân xẹp đốt sống
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 167 Số 6 - 2023
Nghiên cứu nhằm đánh giá giá trị của cắt lớp vi tính hai mức năng lượng (DECT) trong phát hiện phù tủy xương ở bệnh nhân xẹp đốt sống. Bao gồm 18 bệnh nhân với 128 thân đốt sống được chụp cả DECT và cộng hưởng từ. Kết quả cho thấy hình ảnh VNCa mã hóa màu cho tất cả các đốt sống trong chẩn đoán phù tủy xương có độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, tiên đoán âm và độ chính xác lần lượt là 84,2%, 100%, 97,3% và 97,7%. Sự khác biệt về tỉ trọng trên ảnh hai mức năng lượng giữa các đốt sống có và không có phù tủy xương là có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001), với AUC chung 0,935 và ngưỡng giá trị -13,1 HU, độ nhạy và độ đặc hiệu của DECT so với MRI trong phát hiện phù tủy xương là 89,5% và 91%. Như vậy, DECT là một phương tiện hữu ích so với cắt lớp vi tính thông thường, có thể cung cấp thêm thông tin về các đốt sống xẹp mới và có phù tủy xương. DECT cũng có thể dùng như một phương tiện bổ sung hoặc thay thế cho những bệnh nhân không có điều kiện hoặc chống chỉ định chụp cộng hưởng từ.
#Xẹp đốt sống #phù tủy xương #cắt lớp vi tính hai nguồn năng lượng #cắt lớp vi tính hai mức năng lượng #cộng hưởng từ
Tổng số: 15   
  • 1
  • 2